LTS: Tác giả Hùng Lý đã tham gia đoàn công tác số 6 của Kiều bào ta thăm quần đảo Trường Sa và nhà dàn DK1 những ngày cuối tháng Tư năm 2015 vừa qua. Xin giới thiệu những dòng viết vội ghi lại những cảm xúc của tác giả ngay trước chuyến đi và trong những ngày ở đảo.
NHỮNG TẤM LÒNG KIỀU BÀO ĐỨC VỚI TRƯỜNG SA.
Khi chứng kiến hai đoàn Kiều bào ở Đức trở về từ Trường Sa trong 2 năm vừa qua, tôi đã háo hức đăng ký cho mùa đi thứ 3 từ khi thời tiết nước Đức mới lập đông. Đông qua, xuân đến, rồi xuân cũng chuẩn bị đi cho những ngày hè tới. Cũng tới mùa biển lặng cho những chuyến tàu ra khơi, tôi mới biết mình không có tên trong chuyến đi Trường Sa đợt này. Đi Trường Sa nơi đầu sóng, ngọn gió, nơi gần nhất với những gì phải đối mặt, ít nhiều là chốn hiểm nguy hoá ra không phải cứ muốn là được. Vậy là không phải chỉ mình tôi mà còn hàng vạn người muốn ra nơi ấy để tận mắt nhìn mảnh đất quê hương nơi mịt mùng sóng vỗ dù chịu vất vả, gian nan.
Đành phải nhờ vả, cậy cục từ cơ sở đến trung ương. Chỉ còn 5 ngày trước chuyến đi tôi mới chính thức được bổ sung vào danh sách đoàn Việt kiều từ 5 châu đến với Trường Sa. Khỏi nói tôi vui thế nào, ngay bạn bè, người thân biết tin cũng chúc mừng cho tâm nguyện của tôi đã thành sự thật. Thời gian để ra khơi chỉ còn ít ngày mà bao việc còn bộn bề, dang dở. Đúng lúc tôi đang chạy nước rút cho chuyến đi lại nhận được lời mời của CLB bóng bàn Berlin đến dự khai trương khu thi đấu mới. Tôi vốn là thành viên chính thức của CLB này dù chưa một lần cầm vợt. Nhiệm vụ của tôi chỉ là cổ động viên lúc cầu thủ thi đấu, hoạt náo viên trên sân khấu lúc trao giải, nhưng CLB đi đâu cũng có tôi. Bất kể mùa đông hay mùa hạ, ở ngay Berlin gần gụi hay Praha, Budapest xa xôi. Tôi trở thành người thân như anh em trong một gia đình với CLB bóng bàn vì lẽ đó. Và cũng vì lẽ đó, dù bận, tôi cũng không thể từ chối cuộc gặp mặt này.
Khi tôi đến cả khu thi đấu mới đang hào hứng không khí luyện tập dù không có giải đấu. Phía trên đã bày biện bàn ghế, phông, hoa, băng rôn chuẩn bị sự kiện ngày khai trương. Ở một góc nhà thi đấu thấy anh Nguyễn Hữu Thọ Chủ tịch CLB đang trả lời phỏng vấn trước máy quay. Nhìn kỹ thì nhận ra đó là nhóm phóng viên của đài truyền hình VTC10 sang châu Âu công tác từ tuần trước. Các anh chị đi cũng khỏe, gặp gỡ cũng nhiều. Mới tuần trước ở Berlin xuất hiện trong một loạt sự kiện. Rồi chạy sang Praha. Giờ lại có mặt ở đây. Nghe nói sang tuần lại qua Hà Lan. Phóng viên ở đâu cũng thế, báo viết hay truyền hình đều là những cánh chim không mỏi.
Sau phần nghị sự, anh Nguyễn Hữu Thọ trịnh trọng mời tôi lên sân khấu nhận quà của CLB gửi tặng chiến sỹ Trường Sa. Điều này quả là bất ngờ. Bởi chính tôi cũng chưa tường chuyện đi, ở. Rồi ngay khi biết mình sẽ đi, tôi cũng chưa kịp nghĩ đến chuyện quà cáp cho ai. Vậy mà những người ở lại đã rất chu toàn. Nhìn mấy cái vợt, mấy chục quả bóng bàn - một món quà có thể gọi là nhỏ nhoi - được đóng gói ngay ngắn, còn đính thêm Logo và lời đề tặng của CLB, lại thêm một cái vợt to có đầy đủ chữ ký của mọi thành viên CLB kèm theo lời chúc sức khỏe đến các chiến sỹ trên đảo, lòng tôi cứ rưng rưng.
Lại nhớ, tháng 6 năm ngoái, giữa mùa hè nắng nực nhất của nước Đức, khi BTC quyên góp vì biển đảo quê hương đang thực hiện cuộc quyên góp tại TTTM Đồng Xuân, chúng tôi cũng bất ngờ nhận được sự ủng hộ của 15 thành viên CLB bóng bàn Berlin với số tiền 1500 Euro.
Vậy là các anh, các chị không chỉ là một trong số ít các tổ chức hội đoàn tại Đức thường xuyên hoạt động với khẩu hiệu: Sức khỏe, đoàn kết, để hội nhập và phát triển mà trái tim của các anh, các chị luôn hướng về quê hương, cội nguồn nhất là nơi biển đảo.
Khi tôi chia tay với anh em CLB để về trước, mọi người đều chúc tôi "chân cứng, đá mềm" y như thời tôi vượt Trường Sơn thuở trước. Anh Thọ, CT CLB kéo tôi ra một góc, móc mãi trong cái ví trống tuềnh, trống toàng của anh ra tờ 20 Euro nói nhỏ:
-"Hùng mua giúp anh mươi thẻ nạp điện thoại ra biếu mấy chú tân binh nhé. Các cậu lính mới ra đảo là nhớ nhà lắm đấy. Để họ gọi về cho mẹ. Mà nhớ mua loại thẻ nạp của Viettel. Ở ngoài đó anh em chỉ dùng được loại này".
Tôi định từ chối, lại không nỡ. Mươi cái thẻ nạp đem ra, rồi người có, người không, cũng bất tiện. Vả lại, anh cũng đâu có dư dả gì, lại tuổi cao, sức yếu. Nhưng thôi, ít nhiều là ở tấm lòng. Đó mới chính là cái mà những người lính ở nơi đầu sóng, ngọn gió cần hơn cả.
Khi viết đến những dòng này, bất giác tôi nhìn ra cái vợt bóng bàn chứa đầy chữ ký của các thành viên CLB và nghĩ: Những nét chữ bằng mực mỏng manh ký trên gỗ sẽ chẳng tồn tại được lâu với sóng gió mặn mòi nơi Trường Sa. Ngay cả con xuồng CHỦ QUYỀN bằng sắt với dòng chữ được khắc hai bên mạn "Quà tặng của Kiều bào tại CHLB Đức" sẽ được bàn giao cho quân, dân đảo Song Tử Tây trong ngày 20.05 tới cũng không phải là món quà bảo tồn được vĩnh viễn. Cái tồn tại vĩnh viễn trong lòng những người giữ đảo chính là trái tim hàng vạn bà con người Việt ở Đức, trong đó có những thành viên CLB bóng bàn, luôn ngày đêm đau đáu hướng về biển đảo quê hương.
Đoàn kiều bào thăm Trường Sa
NHỮNG NGƯỜI GIỮ ĐẢO.
Chẳng cần nhắm mắt tôi cũng nhận ra cô ấy trong ký ức mịt mù vì tuổi tác của mình.
Một cô bé mới ngoài đôi mươi, nước da nâu mặn mòi như con gái miền biển, nụ cười tươi, dáng dấp mảnh mai, gọn gàng trong quân phục văn công quân đội.
Trẻ trung, bé bỏng thế nhưng cô ấy vẫn là cô giáo của chúng tôi, những cán bộ nghiên cứu của viện ngôn ngữ học khi tập văn nghệ để tham gia hội diễn toàn UBKHXH năm ấy. Một cô giáo nhiệt tình cũng rất nghiêm túc. Ra dáng cô giáo trước những học trò hơn hẳn mình cả về tuổi tác, lẫn trình độ học vấn.
Khi bước chân vào quán cà phê đã hẹn, tôi vẫn nhận ra cô ấy dù 33 năm chưa một lần gặp. Một cô bé vừa qua đôi mươi không thể so với người phụ nữ đã quá tuổi ngũ tuần. Nhưng tôi vẫn nhận ra trong đôi mắt không còn trong của người phụ nữ đang nhìn mình nét tươi tắn, tự tin năm nào.
Tôi đã biết cô bé Quỳnh Hợp hồi còn là diễn viên của Đoàn văn công Phòng không ngày ấy và nhạc sỹ tên tuổi Quỳnh Hợp bây giờ trong hoàn cảnh như thế.
Ngồi với nhau chưa kịp hỏi han chuyện gia đình, nghe nói tôi chuẩn bị đi Trường Sa, câu chuyện lập tức được chuyển hướng theo đề tài biển đảo. Nghe mà khâm phục. Quỳnh Hợp đã viết những ca khúc hay về biển đảo ngay từ khi biển đông còn chưa dậy sóng và sau này cô vẫn luôn đồng hành cảm xúc âm nhạc của mình theo chân những người lính biển. 11 Album về biển đảo trong đó có những ca khúc nhận được giải thưởng lớn, nhận được sự yêu mến của người nghe, quả là một gia tài không nhỏ. Nhưng điều tôi khâm phục hơn đấy cách nhìn của cô với những vấn đề của biển đảo. Cả những quan điểm rất mới đối với tôi, cả những điều tôi đã biết được cô truyền tải bằng cách nói thuyết phục đến giản đơn.
"Anh đừng nghĩ chỉ những người lính mới là những người giữ đảo. Ngay các anh, những Kiều bào hôm nay mang tình cảm đến với lính đảo, cả những người không có mặt trong chuyến đi nhưng chắt chiu từng đồng bạc thẫm đẫm mồ hôi, nước mắt như những viên gạch gửi ra xây đảo, cả những đứa con những người lính đảo hàng ngày cắp sách tới trường không cha đưa đón, cả những người vợ lính đảo chung thủy đợi chồng - tất cả chúng ta - mỗi người đều là những người giữ đảo. Nếu mỗi trái tim chúng ta không dảnh cho biển đảo, nếu không có một hậu phương vững mạnh từ đất liền, không người lính nào giữ được biển đảo quê hương".
Nghe cô ấy nói, nhìn ánh mắt đầy niềm tin của cô ấy, tôi như được tiếp thêm sức mạnh.
Chỉ còn vài tiếng nữa là tàu nhổ neo. Từ tầng 12 của khách sạn giữa trung tâm thành phố mang tên Bác, tôi nhìn ra phía trời xa đang rạng những vầng hồng, cứ ngỡ mình đang đứng trên con tàu vỗ sóng vượt trùng khơi, mà tôi, hay trái tim tôi - như ngưởi lính - đang hừng hực niềm tin, sức sống tuổi đôi mươi.Nào lên đường!
ĐÊM ĐẦU TIÊN TRÊN BIỂN.
Đêm 21.04, đêm đầu tiên trên tàu, tôi ngủ ngon đến mức chẳng nằm nhìn biển đêm, chẳng lắng nghe sóng biển qua cửa sổ như đã định. Cũng phải thôi, ngồi với mấy bạn trẻ của đoàn Dầu Khí, đoàn văn công Quân Đội hò hát giao lưu tới 2 giờ sáng mới giải tán. Rượu lại ngà ngà.
Sáng, 5h30 loa của tàu đã gọi lệnh đánh thức:"Hết giờ nghỉ, toàn tàu báo thức. Hết giờ nghỉ, báo thức toàn tàu. Toàn tàu báo thức!" Nghe vui và lạ đối với những người đã từ lâu không sống trong quân ngũ. Cũng tự dặn mình, bắt đầu từ khi bước chân xuống tàu, mình phải chấp hành kỷ luật như một người lính.
6h lên boong tàu ăn sáng. Biển lặng, gió yên, mặt biển lăn tăn sóng như mặt hồ. Bát phở trên tàu không vàng óng, trong vắt như phở Hà Nội nhưng cũng đủ hành mùi, chanh ớt.
Gặp mọi người ai cũng gọi mình là ca sỹ. Tối hôm qua trong phần giao lưu văn nghệ toàn đoàn, mình đã lên hát bài "Về đây nghe em". Bài rất hợp với tâm thế người xa nước về thăm quê. Mình vừa hát hết câu đầu, mọi người đã đồng loạt vỗ tay.Sóng đánh dưới thân tàu làm mình đứng cũng đung đưa. Dưới bầu trời cao rộng nơi biển khơi, trong ánh nhìn thân thiện của bao bà con đến từ mọi quốc gia, mình thấy gai người vì xúc động. Đang hát mà ứa nước mắt. Bài này mình từng hát trên sân khấu cộng đồng người Việt ở Berlin đôi lần. Nhưng chưa khi nào cảm nhận được từng câu, từng chữ của lời bài hát thấm thía, tha thiết như trong lần hát này. Hát cho những người cùng cảnh ngộ - những người yêu quê mà phải sống ly hương. Cũng chưa bao giờ tôi hát lại được người nghe chăm chú, chia sẻ thật lòng như thế. Cũng chưa khi nào kết thúc mình được vỗ tay tán thưởng đồng loạt và nhiệt tâm đến thế, dù không nhận được một bông hoa.
Đêm đầu tiên trên biển trong hải trình đến Trường Sa, với mình và mọi thành viên trong đoàn đã là một đêm hạnh phúc, vui vẻ và để lại nhiều cảm xúc.
GIAN NAN MỘT CHUYẾN ĐI.
Đêm 23.04, 21h tàu nhổ neo chạy về hướng đảo Nam Yết. Ngày mai 5h sáng tàu sẽ tới đảo. Chương trình của đoàn: Sáng thăm đảo nổi Nam Tết. Chiều ghé đảo chìm Len Đao. Tại đảo Nam Yết đoàn sẽ dâng hương tại chùa, tưởng niệm anh hùng, liệt sỹ. Tại đảo chìm Len Đao đoàn sẽ thay nhau luân phiên thăm và tặng quà cán bộ, chiến sỹ trên đảo.
16h, đoàn lên tàu, neo gần đảo Gạc Ma làm lễ tưởng niệm 64 chiến sỹ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu không cân sức với kẻ xâm lấn trong sự kiện bi tráng bảo vệ đảo chìm này ngày 14.04.1988. Một bên là tàu chiến với những kẻ thủ ác được trang bị vũ khí tối tân đến tận răng, một bên là các chiến sỹ công binh trong tay chỉ có cuốc, xẻng và cờ Tổ Quốc.
Chắc chắc ngày mai là ngày sẽ gây những ấn tượng xúc động cho những người tham dự.Lẽ ra phải đi ngủ sớm để lấy sức, nhưng lòng bồn chồn không yên, tôi trèo lên boong tàu và ngồi trong góc khuất. Phía mạn trái tàu, biển đêm đen kịt. Chỉ một hai điểm sáng của đảo hay của giàn khoan tận tít phía chân trời. Chẳng còn lấp lánh ánh đèn thuyền câu như ở phía gần bờ. Bên mạn phải tàu, biển sáng hẳn nhờ mảnh trăng non mọc sớm, giờ nảy đã tụt xuống gần mép biển. Mảnh trăng lưỡi liềm mỏng dính nhưng cũng đủ in trên biển một vệt trắng bạc, khiến sóng cũng sáng hẳn lên, nhấp nhô như đuổi nhau.
Nhìn trời đen với chi chít những vì sao li ti nhấp nháy, thủy thủ tàu bảo, mai sẽ là một ngày nắng gắt. Nghĩ đến nắng lại sợ. Một ngày trần mình trong nắng để đi thăm đảo Song Tử Tây và đảo chìm Đá Nam hôm nay đã khiến mặt và hai cánh tay tôi đỏ rực như bị bỏng. Một ngày thật nóng nực, mệt mỏi và gian nan. Nhưng hễ hỏi, chẳng ai kêu mệt. Ai cũng bảo rất vui. Họ không thật lòng ư, cả những người phụ nữ yếu ớt chưa từng chịu gian khổ? Chắc không phải thế. Họ cũng như tôi mệt và gian nan. Nhưng chẳng ai nỡ nói ra. Một hành trình chỉ 8 ngày, vất vả, gian khổ là có thật nhưng thấm tháp gì với những người lính đảo, nhất là những người lính trên các đảo chìm đang bám biển, giữ đảo, đâu chỉ một ngày, một tuần mà một năm, hai năm là thời gian không xác định. Không phải chỉ chịu đựng sóng gió, họ còn phải chịu đựng cô đơn xa người thân, xa những khát khao bình thường nhất của con người. Bên họ, còn có cả những hiểm họa luôn rình rập. Nói theo cách của họ mà hôm nay tôi nghe được từ chính miệng người chỉ huy trưởng đảo chìm Đá Nam, một thượng uý trẻ măng dáng như thư sinh: Chúng tôi chấp nhận hy sinh vô điều kiện để bảo vệ đảo. Họ nói điều đó một cách nhẹ nhàng.
Đối diện và sống bên cạnh những người như thế, ai nỡ kêu ca.BÀNG VUÔNG Ở TRƯỜNG SA.
Trước khi tôi, với tư cách BTV báo mạng nguoiviet.de và Phạm Mạnh Cường, nhà quay phim, đi Trường Sa, anh Thế Sáng, nhà thơ cộng đồng người Việt ở Đức, cứ dặn đi dặn lại:"Ra đấy mấy anh em cố tìm và chụp được hoa bàng vuông về cho bà con xem nhé. Tiếc quá, lần tôi đi không có thời gian để tìm".
Nghe lời anh, cũng là nguyện vọng của bất cứ người nào ra đảo nên vừa đặt chân lên đảo đầu tiên là Song Tử Tây, tôi đã thăm dò mấy chàng lính trẻ. Cậu nào cũng bảo ở đây hiếm bàng vuông lắm. Ra đến đảo Nam Yết, cây cối xanh bời bời như đất liền, hỏi đến bàng vuông, cũng vẫn lắc đầu. Ở đây cũng có, nhưng đến được đó khá xa. Thế là đành chịu. Đi hành quân theo đoàn, chương trình có sẵn như kế hoạch tác chiến. Đâu phải đi du lịch mà thả sức lùng sục bàng tròn với bàng vuông.
Đến đảo Trường Sa Lớn, thủ phủ của huyện đảo, chương trình dày dịt hơn chạy sô. Chẳng còn hồn vía nào mà đi tìm bàng. Lúc ngồi nghỉ uống nước thư thả bỗng ngửa mặt lên nhìn trời. Không thể tin vào mắt mình. Đúng là lá bàng nhưng dải lá dài thuôn như lá hồng xiêm. Lá cũng mọc thành chùm như cành hồng xiêm. Thấp thoáng trong lá là những chùm nụ và hoa trông nhang nhác chùm hoa bưởi. Có một bông đã nở, 4 cánh trắng ngự trên đài hoa màu xanh. Đặc biệt từ trong lòng hoa tua tủa những sợi mảnh như những dải kim tuyến màu hồng trùm lên nhuỵ hoa.
Biết tin bàng vuông có hoa lập tức kiều bào ngồi nghỉ quanh đấy xúm đến chụp ảnh. Một bạn trẻ trong đoàn tinh mắt phát hiện một quà bàng bèn lấy gậy chọc. Rơi xuống là một quả bàng non, da xanh như trái bàng bình thường nhưng hình dáng, kích cỡ y hệt quả dưa chuột. Mọi người đều chưa ai tận mắt thấy trái bàng vuông bao giờ nên đoán rằng khi trái lớn nó sẽ phình ra để có hình vuông. Đang bàn tán sôi nổi, có chú lính vệ binh trẻ măng đi qua phán:"Quả bàng này hỏng rồi". Sao hỏng?"Tại nó không vuông. Đã là bàng vuông thì dù già, dù non nó vẫn phải có hình vuông. Không vuông là bàng bị hỏng". Tôi kéo cậu ta hỏi nhỏ:"Thế ở đâu có cây bàng có quả vuông?". Cậu ta chỉ sang phía đối diện:"Qua đường băng sân bay, ở đấy cháu thấy một cây có một quả bàng đã to bằng nắm tay, hoa cũng nhiều hơn".
Tôi và Cường vội chạy sang. Ngay cạnh mấy dãy nhà lính xây khang trang bằng gạch là một cây bàng to như bàng cổ thụ ở Hà Nội, sum suê bóng mát. Nhìn lên cơ man là những chùm nụ trắng to múp bằng đầu ngón tay. Cường ra sức săm soi và quả nhiên phát hiện được một quả non ngay trong tầm tay với. Mà cũng chỉ có một quả duy nhất. Một quả bàng vuông với đúng nghĩa của từ vuông. Tức là có thể nhìn thấy bốn mặt phẳng trên thân quả.
Tôi vít một cành bàng có một bông hoa đă nở để chụp ảnh, bông hoa lập tức lả tả rã cánh, rơi nhuỵ. Một sỹ quan hải quân đứng bên cạnh bảo:"Kiếp hoa bàng vuông không khác gì kiếp hoa quỳnh. Cũng tối nở, sớm tàn. Các anh muốn chiêm ngưỡng vẻ đẹp lúc mới nở của hoa bàng vuông phải chờ đến chập tối. Lúc 6 - 7 giờ".
Tối đó tôi mải vào chùa xin chữ sư trụ trì viết lên hòn đá hình trái tim mà tôi tìm được trên bãi biển trắng bờ sóng vỗ của Trường Sa nên không có dịp ngắm hoa bàng vuông nở. Lòng ngậm ngùi tiếc.
Tối, sau chương trình biểu diễn của văn công ngay bên cột mốc chủ quyền trên đảo, tôi hỏi Phạm Mạnh Cường:"Em có chụp được hoa bàng vuông lúc tối không?". Hắn mở ba lô đựng đồ nghề rồi nhẹ nhàng rút ra một bông bàng vuông còn tươi nguyên đủ cả nụ, cả lá. Tôi cuống quýt:"Cho anh chụp với". Hắn giấu vội, nháy mắt:"Ở đây lộ. Dễ bị tịch thu lắm".
Về tàu, tội vội mò đến phòng hắn. Hắn không có mặt. Tôi lặng lẽ đến bên cái ba lô kéo khoá và cầm bông hoa hắn để cẩn thận trong một ngăn lên tay. Một mùi thơm ngan ngát, dịu dàng như hương hoa sen tỏa ra từ bông hoa cũng to như bông sen trắng. Chụp vội mấy kiểu ảnh, tôi để lại bông hoa vào vị trí cũ.
Hai hôm sau, lúc ngồi trên tàu trở về đất liền, hắn than thở:"Hoa bàng đã héo, quả bàng vuông non em kiếm được cũng úa màu rồi. Không thể đem về Đức cho mọi người xem được nữa.". Đành thở dài an ủi chứ biết làm sao. Hoa tươi, quả non lại bị ngắt khỏi cành sao chịu đước cái nắng, cái nóng ở Trường Sa. Đến người còn héo, sắt thép còn gỉ nữa là.
Lúc đoàn kiều bào từ đảo về đất liền, tập kết ở khách sạn Kingston giữa TP HCM, tôi chợt nhìn thấy ba cây bàng vuông được chiết, những chiếc rễ trắng đã chọc ra khỏi bọc đất, của ai đó mang từ Trường Sa về đã có mặt tại tiền sảnh. Đúng rồi, chỉ có cách đó, cách nhân giống bàng vuông trên cả nước để cây bàng vuông Trường Sa cũng như cả quần đảo Trường Sa nơi mênh mông biển sóng cách mấy trăm hải lý mãi không xa nơi đất liền, không xa trong tình cảm của những kiều bào ngàn dặm cách biệt.
ĐẢO CHÌM HIÊN NGANG NƠI ĐẦU SÓNG.
Theo kế hoạch, đoàn công tác số 6 sẽ đưa Kiều bào ra thăm quần đảo Trường Sa tại 3 đảo nổi: Song Tử Tây, Nam Yết, Trường Sa Lớn và thăm luân phiên tại 3 đảo chìm: Đá Nam, Đá Lát, Len Đao. Rất may mắn, tôi đã có mặt tại 3 đảo nổi kể trên và 2 đảo chìm là Đá Nam và Len Đao.
Cả 2 đảo chìm nơi tôi đến đều có kiến trúc giống nhau. Từ xa đảo nhìn giống như một con tàu. Gần hơn, giống như một ngôi trường với màu ngói đỏ, những ô cửa sổ màu xanh. Gần hơn nữa, giống như Uỷ ban Nhân dân xã với màu tường vàng và những khẩu hiệu kẻ bốn phía.
Đón chúng tôi ở cầu tàu là cán bộ, chiến sỹ trên đảo quân phục chỉnh tề, nụ cười bừng trên gương mặt sạm nắng gió. Dưới chân họ những chú chó hiền lành, nhẩn nha như những chú cừu. Chúng không lăng xăng, nhắng nhít, gầm gừ, kêu sủa như lũ chó trên đất liền.
Tới Len Đao, tôi đăng ký với lãnh đạo đoàn công tác để được phỏng vấn một chiến sỹ trên đảo, đã đưa trước câu hỏi. Rất tiếc cuộc phỏng vấn đã không thành vì theo quy định lịch phỏng vấn phải được đăng ký trước hôm ra thăm đảo. Tôi đành kéo một cậu lính trẻ, đẹp trai, bảnh bao trong quân phục trắng tinh ra một góc chụp ảnh, dúi cho cái thẻ nạp Vietel rồi tranh thủ hỏi:
- Em quê ở đâu?
- Dạ, Ninh Bình.
- Sinh năm nào?
- Dạ 95.
- Ra đảo lâu chưa?
- Dạ mới được 5 tháng?
- Nhớ nhà không?
- Hồi mới ra nhớ lắm. Giờ cũng quen.
- Ở đây có gian khổ không?
- Không ạ. Chỉ thiếu nước, thiếu rau thôi.Tác giả chụp ảnh cùng chiến sỹ Trần Đức Trung, quê Ninh Bình, trên đảo chìm Len Đao
Về đến Hà Nội, tôi kể cho nhà mình nghe về những gì tôi nghe thấy, nhìn thấy ở Trường Sa. Về tiêu chuẩn nước ngặt nghèo chỉ có 4 lít một ngày cho một người lính trên đảo chìm và nhà dàn DK1. Về những cây rau cải, rau dền xác xơ vì thiếu nước trong những căn nhà gỗ trên đảo. Cho mọi người xem những tấm ảnh tôi đã chụp. Bỗng cậu em rể, nhà điêu khắc Trần Hiếu Lễ chỉ vào một bức ảnh reo lên: Ô, bác Hùng chụp ảnh với thằng Tùng nhà mình này. Tôi hỏi lại: Tùng nào? Thì chính lả thằng lính chụp với anh ở đảo chìm Len Đao đấy. Ở nhà gọi nó là Tùng. Là con thằng Thân, em ruột em. Tên đầy đủ là Trần Đức Trung, là lính điều khiển ra đa.
Thì ra đó là cậu lính 20 tuổi người Ninh Bình mà tôi đã gặp và phỏng vấn trên đảo chìm Len Đao. Tiếc là cuộc gặp mặt đó không được biết trước. Nếu biết trước nó là thằng cháu, tôi đã ôm lấy nó như ôm một người thân trong gia đình. Không còn khoảng cách e ngại giữa một Việt kiều và một người lính nơi tiền tiêu. Tha hồ hỏi han, hàn huyên tay bắt, mặt mừng mà không phải xin phép trước. Nhưng cũng lại vui vì cuộc gặp mặt ngẫu nhiên diễn ra thật hiếm hoi. Ở đất liền đã hiếm, ở đảo chìm càng hiếm hơn.
Đảo chìm Len Đao chính là hòn đảo gần nhất, đối mật với đảo Gạc Ma, nơi đã bị phía Trung Quốc chiếm giữ bằng vũ lực trong sự kiện ngày 14.03.1988. Bằng mắt thường cũng nhìn thấy. Bằng ống nhòm thấy nó lừng lững như một quả núi với những cây cần cẩu vươn dài, những tàu hộ vệ tên lửa gầm gừ đe dọa. Trong khi đó Len Đao chỉ là hòn đảo chìm bé bỏng như con tàu đang hiên ngang rẽ sóng. Trên đó là những chàng lính trẻ tuổi mới 20, trong đó có Trần Đức Trung người Kim Sơn, Ninh Bình. Cậu ta chưa từng có người yêu và có cái Nickname trên FB rất nhắng: Trần Như Nhộng.
NHÀ DÀN DK1 - THÔI ĐÀNH HẸN LẠI LẦN SAU.
Ngày 27.04, ngày thứ 7 của hải trình, ngay từ đêm biển đã động dữ dội. Sóng đánh trào lên cả các ô cửa sổ nơi giường nằm. Ghé mắt nhìn, sóng như đánh thẳng vào mặt. Tàu lắc mạnh. Nằm trên giường tầng cảm giác như người bị lăn qua lăn lại.
5h30, đến giờ ăn sáng trời lại mưa lớn. Bát mỳ tôm nấu với giò cho mỗi thành viên của đoàn cũng phải bê về từng phòng.
7h sáng, lễ tưởng niệm các liệt sỹ hy sinh trên thềm lục địa biển phía Nam vẫn được tiến hành. Tàu chao mạnh, mọi người vẫn dạng chân bám chắc sàn tàu, ứa nước mắt nghe chuẩn Đô đốc Đỗ Minh Thái nghẹn ngào đọc lời tưởng niệm.
Đã có những nhà dàn DK1 bị bão biển hung dữ đánh sập vào những năm 1990, 1991, 1998 và 2000. Trong đó năm 1991 và 1998 đã có những chiến sỹ bị hy sinh, thân vùi trong biển sóng.Sau lễ dâng hương và thả hoa cho các liệt sỹ hy sinh ở thềm lục địa phía Nam, từ biển mọc lên một cầu vồng rực rỡ, gần tới mức như nhìn thấy nó mọc lên từ ngay khoảng biển trước mặt. Mấy phút sau khi cầu vồng thứ nhất vừa nhạt màu thì cầu vồng thứ hai còn rực rỡ hơn xuất hiện ngay bên cạnh. Mọi người bảo đấy là điềm báo các liệt sỹ hiển linh.
Đến giờ tiếp cận với nhà dàn mà biển vẫn động mạnh. Những con sóng cao đến 3 - 4 mét cứ vật vã đập vào chân nhà dàn. Chỉ huy đoàn hội ý rồi quyết định chỉ chọn hơn chục người đại diện chuẩn bị áo phao, nai nịt gọn gàng để lên nhà dàn trong đó có trưởng đoàn công tác, phóng viên và kiều bào. Biết đi sẽ là nguy hiểm nhưng không ai trong số những người được cử đi tỏ ra nao núng. Thậm chí vẫn có người vật nài trưởng đoàn để được đi. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho đoàn công tác, đích thân thuyền trưởng tàu kiểm ngư đi theo đoàn đã quyết định đi tiền trạm. Mọi người hồi hộp dõi theo. Nhiều phút trôi qua, con xuồng nhảy chồm chồm trên sóng lớn mãi mới tới chân nhà dàn rồi chồm chồm mãi mới trở lại tàu. Quyết định cuối cùng được đưa ra là không thể lên được nhà dàn vì sóng quá lớn. Tuy thế đội văn nghệ của đoàn vẫn lên phòng chỉ huy biểu diễn và giao lưu với các chiến sỹ trên DK1 qua bộ đàm. Quà tặng của đoàn công tác số 6 sẽ nhờ tàu Kiểm ngư chuyển lại sau.
Nghe qua bộ đàm, các cán bộ chiến sỹ DK 1/18và DK 1/7 vẫn vui vẻ giao lưu và còn tham gia hò hát cùng đoàn đầy lạc quan, say sưa. Chỉ phía đoàn kiều bào vài chị đã khóc. Tiếc vì không được lên dàn DK trực tiếp thăm và tặng quà cho chiến sỹ đã đành, còn xót xa vì bao công các anh chờ đợi mỗi năm chỉ một vài lần gặp gỡ bà con như người thân từ đất liền, từ bao quốc gia lặn lội về thăm. Càng xót xa hơn khi nghe thấy tiếng của nhau, nhìn thấy hình hài nhau tưởng trong tấc gang mà biển trời, bão tố khiến mọi người cách mặt.
Riêng trưởng đoàn công tác số 6 ông Trần Đức Mậu - Phó Chủ nhiệm UBNNVNVNONN - không kìm nén được cảm xúc đã bật khóc thành tiếng. Ông bộc bạch: Với tư cách trưởng đoàn, tôi thấy mình có lỗi vì đã không thực hiện được tâm nguyện của kiều bào. Họ đã vượt hàng chục ngàn cây số để về nước, lại lênh đênh trên biển mấy ngày chịu sóng gió trong đó có cả những phụ nữ chân yếu tay mềm, cả những tiến sỹ, giáo sư tuổi đã " thất thập cổ lai hy". Họ chịu đựng tất cả cũng để mong gặp gỡ, chia sẻ cùng anh em chiến sỹ nơi đầu sóng ngọn gió, vậy mà.
Thuyền trưởng tàu 561, quyết định chạy một vòng quanh nhà dàn DK 1/7 để bà con kiều bào kéo dài thêm giây phút chia tay với cán bộ, chiến sỹ nhà dàn. Tất cả bà con đứng hết mạn tàu bên phải giơ tay vẫy và đồng thanh hô đi, hô lại: Tạm biệt các anh, chúng tôi yêu các anh, hẹn gặp lại. Mắt ai cũng rưng lệ.
Các anh cũng chạy quanh nhà dàn, hướng theo con tàu, vẫy tay, hò hét gì đấy. Nhưng tiếng sóng biển ầm ào khiến không ai trên tàu nghe các anh nói gì. Chỉ thấy màu áo trắng hải quân, những cánh tay cứ vẫy mãi, vẫy mãi cho đến khi chiếc nhà dàn chông chênh bé teo chìm khuất trong mịt mù sóng biển.ĐIỀU CÓ THẬT Ở TRƯỜNG SA.
Tôi hẹn với em ấy từ trước cho một chuyến đi rất khó gặp trong cuộc đời. Một mình đã khó, để đi cả hai cùng lúc càng khó hơn. Như hái sao trên trời. Chuyến đi Trường Sa mùa biển lặng, “tháng 3 bà già đi biển“. Tôi vốn dân viết, em ấy vốn dân quay phim. Trước khi có tên trong danh sách đoàn đi, hai anh em đã bàn bao việc. Anh viết gì, em quay gì. Như nhìn thấy biển cả xanh ngắt nơi mũi tàu, hải âu cánh trắng bay theo ngang trời và ánh mắt nhìn yêu thương của những người lính đảo, da sạm nắng, bàn tay nắm chắc súng.
Sau những trục trặc về thủ tục tưởng em đi đường em, anh đi đường anh, cuối cùng, chúng tôi cũng thỏa ước mong. Cùng có mặt ở cảng Cát Lái nhổ neo cho một hải trình 8 ngày của đoàn công tác số 6 – đoàn kiều bào từ 19 quốc gia về thăm quần đảo Trường Sa và nhà dàn DK1 trong những ngày cuối tháng 04.2015.
Những ngày lênh đênh trên tàu, hay những lúc bận rộn, vất vả khi thăm đảo tôi đều thảnh thơi với một túi da nhỏ bên sườn, nhẹ nhàng với Iphon 6 plus chụp hình, tạo dáng. Ngược lại em hùng hục như thằng xe thồ. Bên máy quay, bên máy ảnh cồng kềnh đèn đóm, dây dợ. Đằng sau còn khoác cả một ba lô phụ kiện. Rồi chạy trước, chạy sau. Lúc trèo cao chụp xuống, lúc tụt tận dưới thấp chụp lên. Người ta ăn uống, hát hò phô diễn, em lặng lẽ quay quay chụp chụp. Người ta ngủ ngon lành, em cần mẫn nạp thu, chỉnh sửa từng bức ảnh, từng khuôn hình.
Các phóng viên, báo chí truyền hình chuyên nghiệp trong nước đi theo đoàn tác nghiệp, đều có nhóm dăm, ba người. Người quay phim, kẻ chụp ảnh, người cấm máy, kẻ bê chân. Mỗi em đơn phương độc mã, chạy ngược, chạy xuôi dưới nắng, dưới gió, vừa quay phim, vừa chụp ảnh, mũ chẳng dám đội, mồ hôi chảy thành dòng. Đôi khi ái ngại, tôi thử xách hộ cái ba lô. Không ngờ nó nặng đến thế. Ít nhất tới 25 kg. Bê được vài chục mét là thở dốc. Em nhìn tôi còn ái ngại hơn:“Em đeo quen rồi, thôi để em“. Mà tôi không mang được thật. Nhất là lúc sóng to lên xuống xuồng để vào đảo. Hai chiến sỹ hải quân kéo tay mà ống đồng còn va vào thành xuồng thâm tím, bước vào lòng xuồng rồi sóng còn đánh cho ngã dúi dụi, nói gì mang vác nặng.
Cứ như thế qua 8 ngày của một hải trình. Lúc nào em cũng hùng hục, xông xáo, xốc vác. Lúc nào tôi cũng nhẹ nhàng, thảnh thơi. Còn hát hò, giao lưu lời hay ý đẹp trên sân khấu. Hôm tổng kết đợt công tác, tôi được tuyên dương xuất sắc toàn đoàn. Lại được lãnh đạo đoàn gắn huy hiệu Chiến Sỹ Trường Sa trước sự chứng kiến của cả tàu. Trong lấp lánh của vinh quang, của ánh đèn, tôi nhìn xuống. Em vẫn lặng thầm thu vào ống kính những khoảnh khắc cho đời, cho người mà không hề suy bì cho mình.Trước, trong và sau chuyến đi, tôi không tin mình sẽ viết được gì ra tấm, ra món dù lòng tôi đầy cảm xúc, nhưng tôi tin em sẽ có những khuôn hình, những thước phim truyền lại cho người xem, nhất là những người chưa từng đặt chân tới, thấy những gì đang có ở Trường Sa, thấy sự gian nan và ý chí quyết tâm giữ gìn biển đảo của quân, dân nơi đầu sóng ngọn gió như chúng tôi đã chứng kiến trong những ngày ở đảo.
Hôm nay nhìn 568 bức hình của em trong một Album dù chỉ qua mạng cũng làm tôi nôn nao nhớ biển, bâng khuâng nhớ người. Album như một phóng sự tương đối đầy đủ và sinh động về Trường Sa, về đoàn công tác số 6 thăm Trường Sa. Từ gương mặt trẻ trung hồn nhiên của người lính đảo khi đứng gác đến giọt nước mắt trên má của một nữ Việt kiều bên nghĩa trang, từ sóng biển hai màu ôm đảo chìm, bông hoa bàng vuông thẩm được cả hương sắc đến đôi chim câu ấm áp đậu trên mạn thuyền như khát vọng hòa bình của người dân biên đảo... Đó là tất cả tình cảm, mồ hôi, cảm xúc của em ấy đối với biển đảo quê hương.
Một người làm rất nhiều, luôn đòi hỏi sự hoàn thiện một cách khắt khe, băm băm, bổ bổ với những sai trái, bất công nhưng lại kiệm lời khi nói về mình. Em rất ngại nếu ai đó gọi mình là nhiếp ảnh gia hay nhà quay phim, dù em đã học hành bài bản cả ở Việt nam, cả ở Đức, đã làm nghề Điện ảnh tới ba chục năm và là con nhà nòi, con nhà quay phim nổi tiếng - NSƯT Phạm Ngọc Lan.Người em đó là Phạm Mạnh Cường. Một Việt kiều ở Đức. Một người ra đảo và hành xử giống như một người lính. Người xứng đáng được đeo huy hiệu Chiến Sỹ Trường Sa mà không cần ai gắn hộ.
Hùng Lý, Berlin, tapchihuongviet.eu
(Toàn bài đã đăng trong Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 824 ra ngày 05.07.2015)
Bút ký: Những tấm lòng kiều bào Đức với Trường Sa
Tiện ích
Phông chữ
- Font Size
- Default
- Chế độ đọc